Tác phẩm Việt NamTHƠ HAY

Thơ chữ Hán của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) hay còn được biết đến với biệt hiệu Bạch Vân Cư Sĩ, nổi tiếng là một nhà Nho, một ẩn sĩ tinh thông dịch lý, đồng thời cũng là một nhà thơ. Thơ ông có màu sắc tư tưởng tiêu diêu, thoát tục của Trang Tử, nhưng vẫn đau đáu một lòng giúp đời.

Học Viết xin được giới thiệu với các bạn những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Đây là những bài được chọn từ “Bạch Vân am thi tập”


CẢM HỨNG

Thái hoà vũ trụ bất Ngu Chu,
Hỗ chiến giao tranh tiếu lưỡng thù.
Xuyên huyết sơn hài tuỳ xứ hữu,
Uyên ngư tùng tước vị thuỳ khu.
Trùng hưng dĩ bốc đồ giang mã,
Hậu hoạn ưng phòng nhập thất khu,
Thế sự đáo đầu hưu thuyết trước,
Tuý ngâm trạch bạn nhậm nhàn du.

Dịch nghĩa

Thái hoà chẳng thấy cảnh Ngu Chu,
Hai phái thù hằn chém giết nhau.
Nhuộm máu phơi xương đà khắp chốn,
Xua chà đuổi sẻ vị ai đâu?
Trùng hưng duỗi ngựa qua sông trước,
Hậu hoạn phòng beo tiến cửa sau.
Ngán nỗi việc đời thôi phó mặc,
Say rồi dạo suối hát vài câu

Bản dịch thơ của Ngô Lập Chi

Non sông nào phải buổi bình thời,
Thù đánh nhau chi khéo nực cười.
Cá vực, chim rừng, ai khiến đuổi?
Núi xương, sông huyết, thảm đầy vơi.
Ngựa phi chắc có hồi quay cổ,
Thú dữ nên phòng lúc cắn người.
Ngán ngẩm việc đời chi nói nữa,
Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi.


DU PHỔ MINH TỰ

Loạn hậu trùng tầm đáo Phổ Minh,
Viên hoa dã thảo cựu nham quynh.
Bi văn bác lạc hoà yên bích,
Phật nhãn thê lương chiếu dạ thanh.
Pháp giới ưng đồng thiên quảng đại,
Hương nhân do thuyết địa anh linh.
Liêu liêu cổ đỉnh kim hà tại?
Thức đắc vô hình thắng hữu hình.

Dịch nghĩa

Sau khi loạn lạc lại tìm đến chùa Phổ Minh,
Vẫn hoa vườn cỏ nội với cửa đá cũ.
Văn bia mờ nhạt hoà trong làn khói biếc,
Mắt Phật lạnh lùng soi thấu đêm thanh.
Pháp giới phải ngang với tầm rộng lớn của trời,
Người làng vẫn nói đến sự anh linh của đất.
Vắng vẻ lặng lẽ, vạc xưa nay còn đâu?
Thế mới biết vô hình vẫn thắng hữu hình.


DỮ CAO XÁ HỮU NHÂN BIỆT HẬU

Tương phùng loạn hậu lão tương thôi,
Khiển quyển ly tình tửu sổ bôi.
Dạ tĩnh Vân Am thuỳ thị bạn,
Nhất song minh nguyệt chiếu hàn mai.

Dịch nghĩa

Sau lúc loạn ly gặp nhau thì đều đã già
Cùng nhau uống vài chén rượu để thắt chặt mối tình ly biệt
Đêm thanh vắng ở Am Mây biết lấy ai làm bạn
Chỉ vầng trăng sáng ngoài cửa sổ rọi bóng vào gốc mai lạnh

Bản dịch thơ của nhóm Lê Thước

Gặp nhau sau loạn đã vừa già
Bịn rịn xa nhau chén rượu khà
Đêm vắng Am Mây ai bạn với
Cành mai trước cửa bóng trăng tà


KHUÊ TÌNH 

Ngâm lạc Tây phong trận trận xuy,
Thâm khuê nhi nữ độc miên thì.
Hốt văn hàn khí xâm liêm mạc,
Thuỷ giác nhân tình hữu biệt ly.
Khứ mộng bất từ sa tái viễn,
U hoài hoạt động cổ bề ti.
Vô đoan điểm trích giai tiền vũ,
Tự hữu u nhân ngữ dạ trì.

Dịch nghĩa

Tiếng ngâm buông xuống theo gió Tây thổi từng trận,
Ở chốn thâm khuê khi người thiếu phụ ngủ một mình.
Bỗng nghe hơi lạnh thấm vào rèm màn,
Mới biết tình người có nỗi biệt ly.
Mơ mộng ra đi, chẳng nề nơi quan ải sa trường diệu vợi,
U uất trong lòng dấy lên tiếng trống ở ngoài trận.
Bỗng đâu tí tách giọt mưa ở trước thềm,
Như có người mang niềm u uất thủ thỉ trong đêm dài.


NGỤ HỨNG 

Đột ngột môn tiền thập nhị phong,
Yên hoa liễm khước lộ thu dung.
Ỷ lâu nhất vọng tri sơn ý,
Thời tống thanh lai thiên vạn trùng.

Dịch nghĩa

Cao cao trước cửa mười hai ngọn núi
Khói tan hoa rụng rõ vẻ mùa thu
Đứng tựa bên lầu xa trông biết được ý núi
Thường đưa màu xanh từ ngoài muôn nghìn dặm đến trước mắt


NGUYÊN ĐÁN THUẬT HOÀI

Kim ngã hành niên lục thập chi,
Lão lai khước dữ bệnh tương kỳ.
Tích xuân cưỡng khuyến sổ bôi tửu,
Ưu quốc hưu ngôn lưỡng mấn ti.
Chức nhẫm bất cần ta lãn phụ,
Gia đình vô giáo tiếu si nhi.
Nhàn trung liêu ngụ nhàn trung thú,
Khởi vị phùng nhân thuyết lãng thi.

Dịch nghĩa

Tuổi đời của ta nay đã sáu mươi,
Già đến, lại cùng bệnh tật hẹn hò nhau.
Tiếc xuân, gượng khuyên mời vài chén rượu,
Lo nước, đừng nói hai mái tóc đã bạc như tơ.
Canh cửi chẳng siêng năng, than thở về người đàn bà lười nhác,
Gia đình không dạy dỗ, đáng cười cho đứa con ngây dại.
Trong lúc thảnh thơi hãy gửi cái thú thanh nhàn,
Há đâu nói về thơ một cách phóng túng với những người gặp mặt.


TÂN QUÁN NGỤC HỨNG kỳ 15

Biệt chiếm khê tuyền cảnh trí u,
Quy lai kết ốc mịch nhàn du.
Hộ hoa bán yểm lâm phong thụ,
Đãi nguyệt tiên khai cận thuỷ lâu.
Tiêu trường tuỳ thì tri vật lý,
Cùng thông hữu mệnh khởi ngô ưu.
Giá ban chân giả thuỳ năng hội,
Nhất khúc Hàn Sơn nhất điếu chu.

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Biệt chiếm suối khe cảnh rừng sâu 
Quay về nhà dựng chẳng lo âu 
Bợ hoa nửa hé cây đón gió 
Đợi trăng mới lên suối quanh lầu 
Thịnh suy tuỳ thời hay đạo lý 
Đều cùng có mệnh há chi sầu 
Nay thường chân giả ai nào biết 
Một khúc Hàn sơn một thuyền câu.


TÂN QUÁN NGỤ HỨNG kỳ 16

Cố viên quy khứ mịch nhàn du,
Đắc táng hiêu nhiên khởi ngã ưu.
Xuất tụ vô tâm vân cánh lãn,
Triều đông hữu ý thuỷ trường lưu.
Sinh bình danh bả văn chương ngộ,
Tất cánh quan tuỳ lão bệnh hưu.
Tá vấn sinh nhai hà xứ thị,
Ngũ hồ yên lãng nhất thiên chu.

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Trở về cố hương thú nhàn chơi
Được mất buồn chi chuyện cuộc đời
Xuất động vô tâm mây càng biếng
Triều đông có ý nước trôi xuôi
Cuộc sống hư danh văn mê hoặc
Quan tuỳ lão bệnh cũng phải thôi
Xin hỏi sinh nhai nơi nào nhỉ
Ngũ hồ khói sóng một thuyền trôi.


THỦY HÀNH PHÓ DOANH CẢM TÁC

Chỉ kỳ thệ phục cựu sơn hà,
Khảng khái đăng chu phát hạo ca.
Trạo bãi thuỷ văn đôi bạch tuyết,
Phàm di nguyệt ảnh lộng hàn ba.
Cô trung đối việt càn khôn lão,
Tứ cố vi mang thảo thụ đa.
Ký thủ tặc nô bình đình hậu,
Trùng tầm Tân quán lữ ngư hà.

Dịch nghĩa

Định kỳ hạn thề khôi phục giang san cũ,
Khảng khái lên thuyền cất cao giọng hát.
Mái chèo khua gợn nước, chập chồng những đống tuyết trắng.
Cánh buồm theo bóng trăng, giỡn nhởn trong làn sóng lạnh.
Tấm lòng cô trung dầu dãi, trời đất già nua,
Đoái trông bốn phía lờ mờ, cỏ cây nhiều lắm.
Ghi nhớ sau ngày dẹp xong bọn giặc hèn,
Lại tìm về quán Trung Tân làm bạn với tôm cá.


TRUNG TÂN NGỤ HỨNG

Nhân thôn quán tây nam,
Giang thuỷ quán tây bắc.
Trung hữu bán mẫu viên,
Viên tại Vân Am trắc.
Luân ưởng trần bất đáo,
Hoa trúc thủ tự thực.
Trượng lý tập hoa hương,
Trản giả xâm hoa sắc.
Điểu tị phanh trà yên,
Ngư thôn tẩy nghiễn mặc.
Khiển hứng nhậm thi cuồng,
Phù suy da hữu lực.
Nhân xảo, ngả giả chuyết,
Thuỳ tri chuyết giả đức,
Ngã chuyết, nhân giả xảo,
Thuỳ tri xảo giả tặc.
Kiền khôn tĩnh lý suy,
Cổ kim nhàn trung đắc.
Hiểm mạc hiểm thế đồ,
Bất tiển tiện kinh cúc.
Nguy mạc nguy nhân tâm,
Nhất phóng tiện quỷ quắc.
Quân tử cầu sở chỉ,
Chí thiện tư vi cực.

Dịch nghĩa

Phía tây nam quán ấy có làng xóm,
Phía tây bắc quán ấy có sông ngòi.
Ở giữa có nửa mẫu vườn,
Vườn ở bên am Bạch Vân.
Bụi ngựa xe không bám vào được cái am ấy,
Hoa và trúc ở trong vườn chính tay tự trồng lấy.
Khi chống gậy, lê dép ra vườn chơi thì hương thơm của hoa bám vào gậy, dép
Khi nâng chén rượu để thưởng thức thì sắc hoa ánh vào chén rượu.
Khí đun nước để pha trà thì loài chim lánh khói,
Khi rửa nghiên mực, mực chảy xuống thì loài cá nuốt lấy.
Khi thích chí thì ngâm thơ tràn để tiêu khiển,
Lại nhờ có chén rượu nhắp cho hăng hái để đỡ sức già yếu.
Người ta khéo léo mà mình lại vụng về,
Biết đâu vụng về ấy lại là một đức tốt!
Ta khờ dại mà người thì xảo quyệt,
Biết đâu lòng xảo quyệt ấy lại là một cái hại lớn!
Khi tĩnh, suy lẽ tạo hoá,
Lúc nhàn, ngẫm việc xưa nay.
Không gì hiểm bằng đường đời,
Nếu không biết cắt bỏ đi thì toàn là chông gai cả.
Không gì nguy hiểm bằng lòng người,
Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì hoá thành
quỷ quái cả.
Vì vậy, người quân tử phải tìm nơi đứng cho vững,
Lấy điều “chí thiện” làm tiêu chuẩn tuyệt đối.

*Ghi chú: Quán Trung Tân do Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi về ở ẩn tại quê nhà, đã cùng các vị bô lão dựng lên, vừa là nơi “thắng địa” (vùng đất đẹp hơn cả), vừa là nơi nghỉ ngơi cho những người qua đường. Quán Trung Tân đã trở thành đê tài quen thuộc trong thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm.


TRỪ TỊCH TỨC SỰ

Tân tuế tài lân cựu tuế trừ,
Lão lai tiếu ngã thái dung sơ.
Kiền khôn bất tận yên hoa cảnh,
Môn quán vô tư thuỷ trúc cư.
Lưỡng độ thủ tằng phù nhật cốc,
Nhất phong thư khẳng thướng công xư (xa),
Niên niên quản đắc xuân quang hảo,
Tri thị thiên tâm độc hậu dư.

Dịch nghĩa

Năm mới vừa đến năm cũ hết,
Về già tự cười mình lười nhác sơ xuất.
Cảnh khói hoa là bất tận trong trời đất,
Nơi có nước có tre, không giữ riêng cho nhà cửa mình.
Hai phen đã ra tay phò xe vua,
Một phong thư đâu có chịu dâng lên xe công.
Năm năm được làm chủ ánh sáng đẹp mùa xuân,
Biết đó là lòng trời riêng hậu với ta.


VẤN NGƯ GIẢ

Hồ hải thiên chu ngư giả thuỳ,
Sinh nhai nhất lạp nhất thoa y.
Thuỷ thôn sa cận si vi lữ,
Giang hứng thu cao lư chính phì.
Đoản địch thanh phong nhàn xứ lộng,
Cô phàm minh nguyệt tuý trung quy.
Đào Nguyên vãng sự y nhiên tại,
Tần Tấn hưng vong thị khước phi.

Bản dịch của Nguyễn Văn Dũng Vicar

Thuyền nhỏ chài câu biển hồ ai
Áo tơi nón lá kế sinh nhai
Bãi cát xóm chài chim là bạn
Thu cao cá béo thú sông dài
Gió mát thong dong vui tiếng sáo
Trăng sáng say về cánh buồm phai
Đào Nguyên chuyện cũ như trước mắt
Tần Tấn hưng vong mặc đúng sai

Học Viết
Học Viết là chuyên trang về tuyển chọn các áng văn chương Việt Nam, qua đó giúp cho độc giả nắm được thế nào là một bài viết hoặc một tác phẩm hay.
Share:

Leave a reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *